Home / Trang chủ  / Tin tức  / Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam

Từ con số 2 triệu USD, Việt Nam đã thu hút 524 tỷ USD vốn đăng ký FDI sau 35 năm. Đến hết năm 2022, hơn 36.000 dự án đang hoạt động với tổng vốn

Từ con số 2 triệu USD, Việt Nam đã thu hút 524 tỷ USD vốn đăng ký FDI sau 35 năm. Đến hết năm 2022, hơn 36.000 dự án đang hoạt động với tổng vốn 441 tỷ USD.

Ba làn sóng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sau 35 năm

Năm 1988, kinh tế Việt Nam mở ra chương mới với việc cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tiên tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Những năm đầu, nhà đầu tư nước ngoài còn dè dặt, số dự án lẫn vốn đầu tư chỉ tăng nhỏ giọt.

Từ năm 1991, vốn FDI bắt đầu tăng nhanh, đánh dấu làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên. Số dự án và vốn đăng ký liên tục lập kỷ lục mới. Nhiều tập đoàn lớn trong lĩnh vực công nghiệp tìm đến đầu tư như PouChen và Feng Tay (Đài Loan) gia công giày dép, Honda (Nhật Bản) sản xuất xe máy…

Sức nóng của đầu tư nước ngoài hạ nhiệt từ năm 1998 cùng với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, và chỉ phục hồi mạnh trở lại từ 2002.

Năm 2006, Việt Nam có những dự án tỷ USD đầu tiên từ nhà sản xuất chip Intel (Mỹ) và tập đoàn thép Posco (Hàn Quốc). Thu hút FDI lần đầu vượt 10 tỷ USD, đánh dấu sự bùng nổ của làn sóng thứ hai. Lượng vốn đăng ký tiếp tục tăng, lập kỷ lục gần 72 tỷ USD vào năm 2008. Đây cũng là năm Samsung – nhà đầu tư FDI lớn nhất hiện nay, bắt đầu xây dựng nhà máy đầu tiên tại Bắc Ninh.

Tuy nhiên, ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến FDI một lần nữa đi xuống. Vốn giải ngân thực tế sau năm 2008 chỉ dao động trong khoảng 10-11 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với con số các doanh nghiệp ngoại đã cam kết đầu tư.

Giai đoạn 2015-2019, dòng vốn FDI tăng trưởng trở lại, kể cả vốn đăng ký lẫn giải ngân trên thực tế. Trong làn sóng thứ ba này, vốn FDI không có bước nhảy vọt như những năm 2005-2008 mà tăng ổn định. Đại dịch Covid-19 xuất hiện đầu năm 2020 khiến các hoạt động đầu tư xuyên biên giới gián đoạn, dòng vốn từ đó cũng trồi sụt.

Sau 35 năm, Hàn Quốc, Singapour và Nhật Bản là ba nước đầu tư FDI nhiều nhất vào Việt Nam. Sau sự kiện Việt – Mỹ nâng cấp quan hệ ngoại giao thành đối tác chiến lược toàn diện đầu tháng 9/2023, truyền thông quốc tế kỳ vọng Việt Nam có thể đón làn sóng FDI thứ 4 với dòng vốn chủ đạo từ nền kinh tế lớn nhất thế giới này.

Mức độ đóng góp cho nền kinh tế của khu vực FDI so với kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước

Từ đầu thập niên 2000, doanh nghiệp FDI dần trở thành một trong những trụ cột của nền kinh tế. Hiện, khối FDI tạo ra 19% GDP, cung cấp 35% việc làm cho người lao động trong khu vực chính thức, dù chỉ chiếm 3% số lượng doanh nghiệp.

Trong ba động lực của tăng trưởng kinh tế gồm đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu, FDI đang dẫn dắt hoàn toàn yếu tố xuất khẩu.

Trong 8 mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất đạt doanh số trên 10 tỷ USD vào năm ngoái, khu vực FDI chiếm vị thế chi phối trên 50% thị phần với 6 nhóm sản phẩm (trừ đồ gỗ và thuỷ sản). Đặc biệt, doanh nghiệp FDI nắm gần như tuyệt đối giá trị xuất khẩu nhóm hàng công nghệ cao như máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại, linh kiện.

Khu vực FDI cũng chứng tỏ hiệu quả vượt doanh nghiệp nội địa trên nhiều khía cạnh.

Từ năm 2010 đến nay, doanh nghiệp FDI thường đạt tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn doanh nghiệp Nhà nước và cao gấp 2-3 lần khu vực tư nhân.

Tính theo quy mô lao động, hơn một nửa doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đều có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Vị trí của doanh nghiệp Việt Nam

Một trong những hạn chế lớn nhất là sự thiếu liên kết giữa khối FDI với doanh nghiệp trong nước, đặc biệt trong chuyển giao công nghệ : trong gần 400 hợp đồng chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI 5 năm gần nhất, không có sự tham gia của công ty trong nước.

Nguyên nhân là công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa phát triển đủ nhanh, đủ chất lượng, việc đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ cao và đưa các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam hợp tác với FDI chưa thực hiện được. “Ngay cả việc nếu nhà đầu tư nước ngoài có thiện chí chuyển giao công nghệ, thì họ sẽ chuyển giao cho ai ?”, một chuyên gia nhận định.

Ví dụ như câu chuyện khi Honda mở nhà máy sản xuất xe gắn máy tại Việt Nam vào những năm 90, tập đoàn Nhật Bản khảo sát hàng chục công ty cơ khí nội địa, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Thế nhưng, họ không tìm được đối tác để hợp tác sản xuất phụ tùng, linh kiện.

Samsung là một ví dụ khác cho thấy vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hơn một nửa số smartphone của thương hiệu này bán ra xuất xưởng từ các nhà máy ở Bắc Ninh và Thái Nguyên.

Hàng năm, tập đoàn Hàn Quốc công khai các nhà cung cấp quan trọng, chiếm 80% giá trị của từng mặt hàng của hãng. Theo danh sách năm 2022, họ có 26 nhà cung cấp chủ chốt đang hoạt động ở Việt Nam, trong đó, 22 công ty của Hàn Quốc, 2 Nhật Bản, 2 Trung Quốc, và 0 doanh nghiệp Việt.

“Việt Nam vẫn chuyên lắp ráp các bộ phận, gia công đơn giản, còn các hợp phần và thiết bị chuyên ngành chưa đạt được tiến bộ nào” là kết luận về ngành điện tử trong Sách trắng công nghiệp được Bộ Công Thương công bố năm 2019.  

Vai trò của Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu vẫn là cung cấp nhân công, vốn giá rẻ.

Nói chung, Việt Nam đã làm tốt việc thu hút số lượng dự án, nhưng chưa chủ động tận dụng hết cơ hội để học hỏi từ nhà đầu tư nước ngoài. Liên kết giữa FDI với doanh nghiệp trong nước còn rất mong manh. Số doanh nghiệp trong nước tham gia được chuỗi cung ứng doanh nghiệp nước ngoài rất ít.

Ngoài ra, cũng phải thấy rằng quá trình quản lý FDI cũng để lại những bài học đáng suy ngẫm như : vụ xả thải gây ô nhiễm ở Đồng Nai năm 2010 của Cty CP Sonadezi ; sự cố môi trường biển miền Trung năm 2016 của công ty Formosa ; hay trường hợp nhiều nhà máy FDI phá sản rời Việt Nam, bỏ lại công nhân với các khoản nợ lương, bảo hiểm xã hội… Chưa kể, nhất là trong lĩnh vực dệt may, nhiều thế hệ công nhân chỉ biết «may và vá » mà không được đào tạo thêm các kỹ năng khác khiến khi nhà máy bị khó khăn về nguồn đặt hàng như năm 2023, bắt buộc phải xa thải thì công nhân ra đi gần như bàn tay trắng.

Kết luận

Dù vậy, nên đánh giá quá trình thu hút, quản lý FDI 35 năm qua trong bối cảnh đất nước gần như phải bắt đầu từ con số 0 sau thời gian dài chiến tranh. Khi mở cửa, Việt Nam thiếu cả hạ tầng cứng lẫn kiến trúc thượng tầng quản lý kinh tế thị trường, công nghệ, tài chính.

Hàng trăm tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành động lực tăng trưởng của Việt Nam nhiều năm qua, nhưng cũng khiến kinh tế trong nước ngày càng phụ thuộc vào ngoại lực.

Có cơ hội từ dòng vốn trên toàn cầu đang dịch chuyển, nhưng Việt Nam còn nhiều việc phải làm nếu thật sự muốn trở nên một nước có nền công nghiệp độc lập tiên tiến.

dienhai.nguyen@free.fr

Review overview
NO COMMENTS

Sorry, the comment form is closed at this time.

Skip to content