TIẾT THANH MINH VÀ PHONG TỤC TẢO MỘ CỦA NGƯỜI TÀY, NÙNG
Sắp đến thanh minh, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những bài viết liên quan đến phong tục tảo mộ. Trước hết là của người Tày, Nùng. Với quan niệm vạn vật hữu linh (mọi

Sắp đến thanh minh, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những bài viết liên quan đến phong tục tảo mộ. Trước hết là của người Tày, Nùng.

Với quan niệm vạn vật hữu linh (mọi vật đều có linh hồn) nên người Tày, Nùng quan niệm con người ta có cả phần xác và phần hồn. Phần thể xác mất đi nhưng phần linh hồn vẫn luôn hiện diện và chi phối đến đời sống của con người. Do sự ảnh hưởng của Đạo giáo nên người Tày, Nùng cũng cho rằng con người có 3 hồn 7 vía (với nam giới) và 3 hồn 9 vía (với nữ giới). Khi con người chết đi thì những hồn này sẽ được trở về những các cõi khác nhau như háng Đình Trung (chợ Đình Trung ở trên cõi trời), thồng báo slao (cánh đồng mà những người con trai và con gái chưa lập gia đình đến để tìm bạn), thồng phji eng (cánh đồng của những linh hồn trẻ em),… Trong đó mộ phần là nơi mà theo quan niệm dân gian luôn có linh hồn tiền nhân trú ngụ. Vì mộ phần là nơi trú ngụ của linh hồn tổ tiên và cũng là sự hiện diện của tiền nhân nơi trần thế nên người Tày, Nùng luôn quan tâm chăm sóc chu đáo mộ phần của tiên tổ. Với người Tày, Nùng, việc để mất mộ là một trong những tội lỗi rất lớn. Sự quan tâm đến mộ phần tổ tiên của người Tày, Nùng thể hiện rõ ở tục lệ tảo mộ hàng năm.
Tùy từng vùng miền mà người Tày, Nùng lại quy định thời gian tảo mộ khác nhau. Nhiều vùng đồng bào đi tảo mộ vào tháng ba âm lịch nhưng cũng có vùng lại đi vào tháng Chạp. Trong đó, tục lệ tảo mộ vào tháng ba phổ biến ở hầu hết các vùng có người Tày, Nùng cư trú. Còn tục lệ tảo mộ vào tháng Chạp chủ yếu ở những vùng người Tày giáp với miền xuôi như huyện Bắc Sơn, Chi Lăng của tỉnh Lạng Sơn. Cư dân Tày ở những vùng này có nguồn gốc từ người Việt và quá trình Tày hoá diễn ra muộn hơn ở các vùng khác. Do đó nên văn hoá Tày nơi đây còn nhiều yếu tổ văn hoá Việt hiện diện, trong đó có tục lệ tảo mộ vào tháng chạp (chạp mả).
Đồng bào Tày, Nùng quan niệm, khi đất trời chuyển sang tháng ba thì cũng bắt đầu có những cơn mưa lớn gây ảnh hưởng tiêu cực đến phần mộ của ông bà tổ tiên. Do vậy, đồng bào thường tổ chức đi tảo mộ nhằm mục đích phát quang cây cỏ và gia cố lại cho ngôi mộ thêm chắc chắn. Phong tục tảo mộ được người Tày, Nùng gọi là slại mả hoặc pây phằn. Ngoài ý nghĩa sửa sang lại mộ phần thì phong tục tảo mộ còn thể hiện tình yêu thương và trách nhiệm của người sống với người đã khuất. Do tiết thanh minh thường rơi vào tháng ba nên tục đi tảo mộ thường bị gọi nhầm lẫn là đi thanh minh.
Trước đây, người Tày, Nùng thường quy định thời gian đi tảo mộ phải vào các ngày 3 trong tháng (mùng 3, 13, 23) . Trong đó, người Nùng đi tảo mộ vào đúng ngày 3 tháng 3. Người Nùng quan niệm, tục tảo mộ không phụ thuộc vào tiết thanh minh nên nếu ngày 3 tháng 3 mà chưa đến thanh minh thì đồng bào vẫn tiến hành tảo mộ. Theo khảo cứu từ hương ước các tổng, xã trong tỉnh Lạng Sơn được tập hợp trong sách Tục lệ Lạng Sơn thì hầu hết các địa phương trong tỉnh Lạng Sơn đều quy định tục lệ tảo mộ vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Trong ngày này, bên cạnh phong tục tảo mộ thì còn có những hèm tục khác như không được nổi lửa, không được chặt củi nấu cơm, không được đội nón trắng, … nếu ai vi phạm điều kiêng này thì sẽ bị phạt rất nặng . Có lẽ những hèm tục này liên quan đến tết Hàn Thực trong văn hoá Hán. Trong tết hàn thực, người Trung Quốc cũng kiêng nổi lửa và phải ăn các loại thức ăn nguội. Điều này phần nào cũng khẳng định phong tục tảo mộ truyền thống của cộng đồng Tày, Nùng là vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch.
Ngày nay, đồng bào có thêm quan niệm cho rằng phải đến tiết thanh minh thì cửa mả mới mở cho các cụ lên trần gian . Do đó, nhiều nhà thường lựa chọn ngày tảo mộ vào sau tiết thanh minh chứ không nhất định phải là các ngày 3 trong tháng như trước đây. Ngoài ra, do ảnh hưởng của thời gian học tập, lao động và công tác tại các công sở, cơ quan, xí nghiệp nên ngày tảo mộ cũng có sự thay đổi nhằm đáp ứng được công việc của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên đồng bào không bao giờ để ngày tảo mộ quá tháng 3 âm lịch. Đối với những ngôi mộ mới mà người nằm dưới mộ chưa cắt tang thì người ta tảo mộ trước tiết thanh minh.
Để việc tảo mộ tiến hành thuận lợi thì từ tháng 2 âm lịch, các thành viên trong gia đình đã liên lạc với nhau để thống nhất về thời gian. Do mộ phần là sự hiện hữu của ông bà, cha mẹ nên với người Tày, Nùng, việc đi tảo mộ mang ý nghĩa báo hiếu. Vì vậy dù ở xa đến mấy thì con cháu cũng cố gắng thu xếp công việc để về thắp hương và thăm lại nơi an nghỉ của tiên tổ. Theo tục lệ truyền thống thì người ta sẽ đi tảo mộ ở những ngôi mộ mới trước rồi mới đi các mộ cũ. Nhiều gia đình do chưa có nghĩa trang riêng và mộ các cụ rải rác ở nhiều nơi thì việc đi tảo mộ có khi phải mất đến vài ngày.

Trước khi đi tảo mộ, người ta phải chuẩn bị sẵn các phương tiện như dao phát, cuốc, xẻng, liềm để dọn dẹp và phát quang mộ. Bên cạnh đó, đồng bào còn chuẩn bị hương, vàng, nến, rượu và các lễ vật để cúng người dưới mộ. Các lễ vật thường có lễ tam sinh (gà luộc, thịt lợn luộc, cá rán hoặc trứng luộc), bánh, kẹo, hoa quả, xôi. Với những khu mộ lớn, có khi đồng bào còn quay cả lợn để cúng. Trong các món lễ vật dâng cúng không thể thiếu món xôi ngũ sắc và bánh ngải. Xôi ngũ sắc được làm từ gạo nếp cái hoa vàng ngâm với các loại củ và lá cây tự nhiên để tạo màu: Màu vàng từ củ nghệ hoặc hoa của cây bjoóc phjión (cây mật mông); màu đỏ từ lá cẩm đỏ hoặc quả gấc; màu tím và màu xanh nhạt từ cây cẩm tím; màu trắng là màu tự nhiên của gạo nếp. Bánh ngải được làm từ gạo nếp giã với lá ngải (lá ngải được luộc nhiều lần với nước vôi trong để khử vị ngái) nhân lạc – đường hoặc vừng – đường. Đây là hai món ăn đặc trưng của ngày lễ tảo mộ và là đặc sản trong ẩm thực Tày, Nùng.
Khi đến mộ, việc đầu tiên cần phải làm đó là thắp hương để xin các vị thần linh và người dưới mộ cho phép được phát quang, sửa sang mộ. Trước đây khi chưa cấm pháo, người ta thường đốt một băng pháo tép để tạo ra âm thanh vui tươi, ròn rã nhằm báo hiệu sự có mặt của con cháu và xua tan đi sự âm u của núi rừng. Sau đó, người ta bắt đầu phát các loại cây cỏ bám xung quanh mộ, sửa lại đường rãnh dẫn nước quanh mộ và kè lại bờ để tránh mộ bị nước chảy làm xói mòn. Cuối cùng, mộ được đắp lên một lớp đất mới để trông sáng sủa và to đẹp hơn. Người Tày, Nùng quan niệm mộ phần là nơi an nghỉ của ông bà nên rất cần có sự yên tĩnh. Đồng bào chỉ lên mộ thắp hương khi có việc cần thiết chứ không lai vãng đến thường xuyên. Đặc biệt, trừ ngày tảo mộ vào tháng ba thì những ngày khác trong năm không được phép động dao cuốc vào mộ. Kể cả trong ngày tảo mộ, khi đã hoá vàng tại mà cảm thấy việc sửa mộ vẫn chưa vừa ý thì cũng không được phép động vào mộ. Trường hợp nếu muốn sửa mộ vào những khác ngoài ngày tảo mộ thì phải xem ngày giờ cẩn thận và phải có mặt của thầy tào. Gạt đi những những yếu tố mê tín thì quan niệm này nói lên sự liên đới giữa những người thân ruột thịt dù còn sống hay đã mất. Đồng thời cũng là sợi dây vô hình kết nối giữa người sống với người đã khuất và giữa thế hệ sau với các bậc tiền nhân.
Khi ngôi mộ đã được đắp lớp đất mới đẹp đẽ thì đồng bào sẽ bày ra trước mộ các lễ vật để cúng thần linh và vong linh người nằm dưới mộ. Thông qua làn khói hương mờ ảo, các con cháu gửi lòng thành kính thỉnh mời các cụ về chứng giám; phù hộ cho các con, các cháu ở trần gian được mạnh chân, khỏe tay và gặp nhiều điều may mắn. Sau khi rót đủ ba tuần rượu, những thếp tiền vàng, quần áo sẽ được đem thiêu hóa ngay cạnh mộ. Với tinh thần bác ái, đồng bào không quên phát quang và thắp cho những ngôi mộ hoang nén hương thơm để người nằm dưới ấy bớt phần tủi nhục.
Sau khi hóa vàng, gia đình sẽ thụ lộc ngay tại mộ. Việc thụ lộc tại mộ mang ý nghĩa nhân văn rất lớn vì nó không chỉ là sự cộng cảm, cộng mệnh của những người đang sống mà còn là sợi dây kết nối tâm linh giữa người sống với người đã khuất. Trước khi ăn, người ta ném 1 chút thức ăn ra bốn phương nhằm mục đích cho các cô hồn không nơi nương tựa đang lai vãng quanh đây cũng có miếng ăn. Bữa ăn tại mộ diễn ra một cách vui vẻ và đầm ấm, át đi hẳn sự âm u thường ngày của nghĩa trang, của núi rừng. Trong lúc ăn uống, đồng bào không quên đem chén rượu đến mời những gia đình xung quanh cũng đang tảo mộ, tạo nên không khí vui tươi và tăng thêm tinh thần đoàn kết xóm làng. Theo tục lệ truyền thống, người ta phải ăn hết tất cả các lễ vật đem theo, không được phép để thừa. Nếu còn thức ăn thừa thì phải để lại mộ chứ không được đem về. Phần thức ăn thừa này phải được gói ghém lại một cách gọn gàng chứ không được vứt tung toé. Thời phong kiến trước đây, những phần thức ăn để lại mộ là món quà dành cho những người nghèo khó và những đứa trẻ đi chăn trâu ở đợ cho nhà giàu.
Kết thúc buổi tảo mộ, đồng bào cắm lên trên mộ một cây nêu được cắt bằng giấy bản theo hình những đồng tiền xu. Theo NNƯT Nguyễn Văn Thọ (nghệ nhân thực hành nghi lễ then ở xã Đề Thám, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn) thì cây nêu này mang những ý niệm như sau:
Thứ nhất: Việc cắm nêu báo hiệu ngôi mộ này là ngôi mộ có chủ và đã được con cháu đến tảo mộ.
Thứ hai: Những đồng tiền trên cây nêu là tài sản để dành của con cháu dâng người nằm dưới mộ.
Thứ ba: Cây nêu là vật đánh dấu lãnh thổ và quyền sở hữu mộ phần của vong linh người ở dưới mộ. Đó là sự nhắc nhở các vong linh, tà ma quỷ quái không được xâm phạm vào khu vực mộ.
Đối với những ngôi mộ mà người nằm dưới mộ chưa được cắt tang thì không được cắm cây nêu trên mộ vì mộ phần lúc này vẫn chưa thực sự thuộc quyền sở hữu của vong linh dưới mộ.
Tảo mộ tháng ba là tục lệ đẹp và mang nhiều ý nghĩa. Nó thể hiện tính nhân văn và tinh thần trọng đạo hiếu của người Tày, Nùng. Tục tảo mộ không chỉ là tấm lòng hiếu thuận của con cháu đối với ông bà, cha mẹ mà còn là cơ hội để cố kết tình cảm giữa những người thân trong gia đình. Vượt qua không gian tâm linh, tục lệ tảo mộ trở thành lễ hội lớn của cộng đồng. Ngày nay, tục lệ tảo mộ tuy đã có nhiều sự thay đổi về thời gian nhưng vẫn luôn được đồng bào trân trọng, gìn giữ và là nét đẹp trong văn hóa truyền thống Tày, Nùng.
Khánh Ngân